Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Quốc kỳ
Quốc huy
Khẩu hiệu
"In God We Trust" (từ năm 1956 và được in trên đồng đô Mỹ, có nghĩa là "Chúng ta tin vào Thượng Đế")
"E Pluribus Unum" ("Từ nhiều thành một"; tiếng Latin truyền thống)
Quốc ca
The Star-Spangled Banner
(xem lời ở phía dưới)
Quốc kỳ

Quốc huy

Khẩu hiệu
"In God We Trust" (từ năm 1956 và được in trên đồng đô Mỹ, có nghĩa là "Chúng ta tin vào Thượng Đế")
"E Pluribus Unum" ("Từ nhiều thành một"; tiếng Latin truyền thống)
Quốc ca
The Star-Spangled Banner
(xem lời ở phía dưới)
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (hay Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, xem lý do tên gọi phía dưới) là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Quốc gia này nằm gần hoàn toàn trong tây bán cầu gồm 48 tiểu bang lục địa và thủ đô Washington DC, nằm giữa Bắc Mỹ, giáp Thái Bình Dương ở phía tây, Đại Tây Dương ở phía đông, Canada ở phía bắc, và Mexico ở phía nam. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng tây bắc của lục địa Bắc Mỹ, giáp với Canada ở phía đông. Tiểu bang Hawaii nằm giữa Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng có 14 lãnh thổ hay còn được gọi là vùng quốc hải rải rác trong vùng biển Caribbe và Thái Bình Dương.
Với 3,79 triệu dặm vuông (9,83 triệu km²) và 305 triệu dân, Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ ba hoặc thứ tư về tổng diện tích (bao gồm lục địa, các đảo & quần đảo) và cũng là nước có dân số đông thứ ba trên thế giới. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên toàn cầu, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Nền kinh tế quốc dân của Hoa Kỳ lớn nhất thế giới, với tổng sản phẩm nội địa (GDP) được ước tính cho năm 2008 là trên 14,3 ngàn tỉ đô la (khoảng 23% tổng sản lượng thế giới dựa trên GDP danh định, và gần 21% sức mua tương đương).
Quốc gia được thành lập ban đầu với mười ba thuộc địa thuộc Vương quốc Anh, nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi tự tuyên bố trở thành các "tiểu quốc", cả 13 cựu thuộc địa này đã đưa ra tuyên ngôn độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Các tiểu bang nổi loạn đã đánh bại Đế quốc Anh trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ, đây là cuộc chiến tranh thuộc địa giành độc lập đầu tiên thành công trong lịch sử.
Hội nghị Liên bang quyết định sử dụng bản Hiến pháp Hoa Kỳ hiện tại vào ngày 17 tháng 9 năm 1787. Việc thông qua bản hiến pháp một năm sau đó đã biến các cựu thuộc địa thành một phần của một nước cộng hòa duy nhất. Đạo luật nhân quyền Hoa Kỳ gồm có mười tu chính án hiến pháp được thông qua năm 1791. Trong thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã mua hoặc đã chiếm được thêm lãnh thổ từ Pháp, Đế quốc Tây Ban Nha, Mexico, và Đế quốc Nga, sáp nhập Cộng hòa Texas và Cộng hòa Hawaii. Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ và ngăn ngừa sự chia xé quốc gia. Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Đệ nhất Thế chiến đã xác định vị thế siêu cường quân sự của Hoa Kỳ. Năm 1945, Hoa Kỳ trở thành quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân sau Đệ nhị Thế chiến và là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Là siêu cường duy nhất còn lại sau thời Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ được nhiều quốc gia nhìn nhận như là một thế lực quân sự, văn hoá, và kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
Tên gọi
Các cách viết tắt thông thường của United States of America gồm có United States, US, và USA. Các tên thông tục cho quốc gia này bao gồm thuật từ thường sử dụng là America (Mỹ) hay là the States. Thuật từ Americas để chỉ các vùng đất tây bán cầu được đặt vào đầu thế kỷ 16 theo tên của nhà thám hiểm kiêm chuyên gia vẽ bản đồ người Ý là Amerigo Vespucci. Tên đầy đủ của quốc gia này lần đầu tiên được dùng chính thức trong Tuyên ngôn Độc lập như sau "Tuyên ngôn nhất trí đồng thuận của 13 tiểu bang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" được "Các đại biểu của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" chấp thuận ngày 4 tháng 7 năm 1776. Tên hiện tại được khẳng định một lần nữa vào ngày 15 tháng 11 năm 1777 khi Đệ nhị Quốc hội Lục địa chấp thuận Những Điều khoản Liên hiệp. Điều khoản đầu phát biểu như sau "Tên gọi của Liên bang này sẽ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ."
Tên Columbia cũng có một thời là tên thông dụng để chỉ châu Mỹ và Hoa Kỳ. Nó được lấy ra từ tên của Christopher Columbus, người khám phá ra châu Mỹ và tên này xuất hiện trong tên District of Columbia (chính là thủ đô Washington DC của Hoa Kỳ). Hình tượng Columbia với đặc điểm của một người phụ nữ xuất hiện trên một số tài liệu chính thức, bao gồm một số loại tiền của Hoa Kỳ. Cách thông thường để nói đến một công dân Hoa Kỳ là dùng từ người Mỹ (American).
Trong tiếng Việt, tên Hợp Chúng Quốc Châu Mỹ là theo phiên âm Hán-Việt: Mỹ Lợi Kiên Hợp Chúng Quốc. Chữ "chúng", có nghĩa là "nhiều", nhưng cũng được viết thành "chủng" vì nhiều người nghĩ rằng từ đó có nghĩa là "chủng tộc", vì nước này nổi tiếng là một quốc gia đa chủng tộc, đa văn hóa. Do đó tên gọi Hợp Chủng Quốc hoặc Hiệp Chủng Quốc hiện nay được dùng khá phổ biến tại Việt Nam, kể cả trong một số văn kiện chính thức. Tuy nhiên, từ năm 2007, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có công văn chính thức công nhận và đề nghị thống nhất sử dụng tên gọi "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ".Mặc dù vậy, Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội sử dụng tên "Hợp chúng quốc" và "Hợp chủng quốc", còn Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành phố Hồ Chí Minh sử dụng tên "Hiệp chủng quốc".
"America" phiên âm Hán Việt là A Mỹ Lợi Gia, người Việt thường gọi tắt là Mỹ. Từ Hán-Việt "Hoa Kỳ" phát xuất từ quốc kỳ của nước này, với nhiều ngôi sao lấp lánh, giống như những bông hoa. Tên này vẫn dùng trong tiếng Việt, mặc dù trong tiếng Hán không còn dùng nữa.
Quốc kỳ
Quốc kỳ của Mỹ hiện nay với 13 sọc đỏ trắng tượng trưng cho 13 "thuộc địa độc lập" đầu tiên. 50 ngôi sao trắng trên nền xanh dương tượng trưng cho 50 tiểu bang.
Trong suốt lịch sử, lá cờ này đã từng thay đổi số lượng sọc & số lượng sao:
1/1/1776: Lá cờ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được cắm một cách đĩnh đạc và uy nghiêm trên đồi Prospect . Lá cờ này gồm 13 sọc đỏ-trắng xen kẽ nhau và được đặt ở nơi cao nhất ở phía bên trái của góc đường British Union Jack.
1776: Hội nghị liên bang lục địa toàn Hoa Kỳ sau khi bàn luận đã đi đến thống nhất như sau: Lá cờ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bao gồm 13 sọc, xen kẽ nhau giữa trắng và đỏ; trong đó gồm 13 sao trắng nằm giưã trong nền màu xanh, đại diện cho một chòm sao mới (các sao đại diện cho các bang Delaware, Pensylvania, New Jersey, Geogia, Connecticut, Massachusetts, Maryland, South Carolina, New Harnphire, Virgina, New York, North Carolina và Rhode Island)
5/1/1777: Một bài báo cáo về sự ra đời của lịch sử lá cờ nước Mỹ đã được nêu ra.
1787: Thuyền trưởng Robert Gray đã thực hiện một chuyến vòng quanh thế giới mang theo lá cờ trên chiếc thuyền (vòng quanh miền Nam nước Mỹ, đến Trung Quốc và nhiều nước khác). Ông ta đã khám phá ra bờ biển Columbia và đã đặt tên cho con tàu là tàu Columbia. Sự khám phá của ông dựa trên nền tảng các chính sách và đạo luật của chính phủ Mỹ.
1795: Lá cờ có 15 sao và 15 sọc ( Biểu tượng cho các bang Verrnont và Kentucky)
1818: Lá cờ có 20 sao và 13 sọc ( Biểu tượng cho các bang Tennessee, Ohio, Louisiana, Indiana và Mississipi) được quyết định sửa đổi vào lần thứ 4 là vào ngày 4/4/1818 và lá cờ đã được thêm vào 13 sọc và 1 sao .
1819: Lá cờ 21 sao (Biểu tượng cho bang Illinois)
1820: Lá cờ 21 sao (Biểu tượng cho hai bang Alabana và Maine)
1822: Lá cờ 23 sao (Biểu tượng cho bang Missors)
1836:Lá cờ 25 sao (Biểu tượng cho bang Arkasas)
1845: Lá cờ 27 sao (Biểu tượng cho bang Florida)
1846: Lá cờ 28 sao (Biểu tượng cho bang Texas)
1847: Lá cờ 29 sao (Biểu tượng cho bang Towa)
1848: Lá cờ 30 sao (Biểu tượng cho bang Wisconsin)
1851: Lá cờ 31 sao (Biểu tượng cho bang California)
1858: Lá cờ 32 sao (Biểu tượng cho bang Minnesota)
1859: Lá cờ 33 sao (Biểu tượng cho bang Oregon)
1861: Lá cờ 34 sao (Biểu tượng cho bang Kansas)
1863: Lá cờ 35 sao (Biểu tượng cho bangWest Virgina)
1865: Lá cờ 36 sao (Biểu tượng cho bang Nevada)
1867: Lá cờ 37sao (Biểu tượng cho bang Nebraska)
1877: Lá cờ 38 sao (Biểu tượng cho bang Colorado)
1890: Lá cờ 43 sao (Biểu tượng cho các bang North Dakota, South Dakota, Montana, Washington và Idaho)
1891: Lá cờ 44 sao (Biểu tượng cho bang Wyorning)
1896: Lá Cờ 45 sao (Biểu tượng cho bang Utah)
1908: Lá cờ 46 sao (Biểu tượng cho bang Oklahoma)
1912: Lá cờ 48 sao (Biểu tượng cho hai bang New Mexico và Arizona). Theo lệnh của những người đứng đầu chính phủ ra ngày 24/6/1912 - các biểu tượng ngôi sao được thiết lập và đưọc sắp xếp theo thứ tự mỗi bên.
1931: Lời nhận xét chính thức của quốc hội: Bài "The Star-Spangled Banner" cũng được chọn là quốc ca của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Sự chọn lựa này đã gây ra một niềm phấn khởi mà Francis Scott key đã bày tỏ trong bài viết của mình .
1945: Lá cờ đã tung bay trên quần đảo Harbol vào ngày 7/12/1941và sau đó ở trên nóc tòa Nhà Trắng vào ngày 14/8 khi mà chính phủ Mỹ chấp nhận hiệp ước trên.
3/8/1949: Tổng thống Truman đã ký một hiệp ước cho chính phủ lấy ngày 14/6 làm ngày Quốc kỳ .
1959: Lá cờ 49 sao (Biểu tượng cho bang Alaska). Sắc lệnh đặc biệt của Tổng thống Eisenhower ký ngày 3/1/1959 đã quyết định sắp xếp các ngôi sao thành 7 hàng. Mỗi hàng gồm 7 ngôi sao theo hàng dọc và hàng ngang. Sắc lệnh đặc biệt của Tổng thống Eisenhower ký ngày 21/8/1959 lại quyết định sắp xếp các ngôi sao 9 hàng ngang và 11 hàng dọc.
1960: Lá cờ 50 sao (Biểu tượng cho bang Hawaii).
1963: Lá cờ được Barry Bishop cắm trên đỉnh ngọn núi Everest .
20/7/1969: Ngọn cờ của Mỹ đã được Neil Amstrong , người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng từ trái đất , cắm lên mặt trăng .
12/12/1995: Qui định hiến pháp về sửa đổi quốc kỳ đã bị thượng nghị viện Mỹ bác bỏ. Theo qui định về sửa đổi quốc kỳ này thì đốt quốc kỳ sẽ bị xem là trọng tội.
Quốc ca
The Star-Spangled Banner, tạm dịch là Lá cờ ánh sao chói lọi, là quốc ca chính thức của Hoa Kỳ. Lời được viết bởi Francis Scott Key, một luật sư và nhà thơ nghiệp dư, sau khi ông chứng kiến cảnh pháo đài McHenry bị quân Anh oanh tạc trong Chiến tranh năm 1812. Phần nhạc do John Stafford Smith, một nhà soạn nhạc người Anh, sáng tác vào khoảng giữa thập niên 1760 (tên bài này là To Anacreon in Heaven).
To Anacreon in Heaven được Ralph Tomlinson đặt lời và nó trở thành bài hát chính thức của Anacreontic Society, hiệp hội nhạc sĩ tài tử viết nhạc trữ tình tại Luân Đôn. Bài hát nhanh chóng được phổ biến tại Anh Quốc và Hoa Kỳ.
Khoảng 50 năm sau, vào năm 1814, Francis Scott Key viết bài thơ The Star-Spangled Banner để hát với giai điệu của bài To Anacreon in Heaven. Đây được xem là ca khúc yêu nước và được phổ biến đến khắp mọi nơi trên xứ sở Cờ hoa.
31/03/1931, Quốc hội Hoa Kỳ đề nghị Tổng thống Herbert Hoover thông qua dự luật công nhận bài hát trên là Quốc ca Hoa Kỳ. Bài hát với lời thơ của Francis Scott Key và phần nhạc do John Stafford Smith viết. Hai tác giả đã qua đời mà không biết mình nhận được vinh dự cao quý đó.
The Star-Spangled Banner
I.
O, say can you see by the dawn's early light
What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming?
Whose broad stripes and bright stars through the perilous fight,
O'er the ramparts we watched were so gallantly streaming?
And the rocket's red glare, the bombs bursting in air,
Gave proof through the night that our flag was still there.
Hợp xướng
O, say does that star-spangled banner yet wave
O'er the land of the free and the home of the brave?
II.
On the shore, dimly seen through the mists of the deep,
Where the foe's haughty host in dread silence reposes,
What is that which the breeze, o'er the towering steep,
As it fitfully blows, half conceals, half discloses?
Now it catches the gleam of the morning's first beam,
In full glory reflected now shines in the stream
Hợp xướng
'Tis the star-spangled banner! Oh long may it wave
O'er the land of the free and the home of the brave.
III.
And where is that band who so vauntingly swore
That the havoc of war and the battle's confusion,
A home and a country should leave us no more!
Their blood has washed out of their foul footsteps' pollution.
No refuge could save the hireling and slave
From the terror of flight and the gloom of the grave
Hợp xướng
And the star-spangled banner in triumph doth wave
O'er the land of the free and the home of the brave.
IV.
Oh! thus be it ever, when freemen shall stand
Between their loved home and the war's desolation!
Bles't with victory and peace, may the heav'n rescued land
Praise the Power that hath made and preserved us a nation.
Then conquer we must, when our cause it is just,
And this be our motto: "In God is our trust."
Hợp xướng
And the star-spangled banner in triumph shall wave
O'er the land of the free and the home of the brave.
Bài hát đã được nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, hiện sống tại San Jose, California, đặt lời tiếng Việt.
Ô! Kìa bầu trời cao.
Phất phới bay cờ sọc sao.
Dù trời sáng hay ban chiều
Nhìn cờ bay với bao tự hào
Giữa sa trường đầy gian lao
Vẫn tung bay cờ sọc sao
Lồng lộng gió trên chiến hào
Hồn non sông hiên ngang vẫy chào.
Đầy trời rền vang tiếng phá
Tiếng bom gào như xé gió
Hãy vững tin trong đêm dài
Nhìn lên lá cờ còn đây
Điệp khúc:
Người ơi hay chăng lá cờ hào hùng, trong gió bay vẫy vùng.
Miền Tự Do lòng ta yêu dấu! Là quê hương những anh hùng.
(Còn tiếp)
Azalea tổng hợp từ Wikipedia & nhiều nguồn.